Saturday, May 24, 2025

Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Buổi chiều hôm qua, thứ sáu cuối tuần, có việc phải đi métro đường số 7.
Ngồi trên xe, tương đối vắng vẻ, vì chưa phải giờ cao điểm.
Chợt để ý đến một hình vẽ trên cửa kính. Câu viết bằng tiếng Pháp, phụ thêm tiếng Anh ở dưới, hẳn là dành cho du khách.
Tạm dịch:
"Tôi lên xe với, tôi xuống xe cùng."


Tự hỏi người không quen đi métro ở Paris, không biết hiểu câu nói gì không nhỉ.
Phải sống trong bối cảnh thành phố Paris bị đe dọa khủng bố thường trực, hơn hai mươi năm về trước, thì mới thấm thía câu viết ở trên.
Nhât là đối với tôi, đã sống ở Sài Gòn, trước 1975, trong thời kỳ giới nghiêm thiết quân luật.
Lựu đạn lâu lâu nổ ở một khu phố nào đó, trong một rạp chiếu bóng, hay một quán cà phê. Khắp nơi, những ụ bao cát chất kín trước cửa vào một cơ quan quân đội Mỹ chẳng hạn.
Buổi chiều về nhà hơi muộn một chút (sau 18 giờ), bước vào nhà, thấy gương mặt mẹ tái xanh, vì lo âu. Bây giờ nhớ lại, còn rơi nước mắt.
Paris những năm 1980, có nhiều vụ khủng bố xảy ra, bom nổ ở nhà ga, hay trong métro. Nhà chức trách an ninh thành phố kêu gọi dân chúng đề cao cảnh giác, thấy bao hành lý khả nghi, không người thừa nhận, phải tức tốc thông báo cho nhân viên an ninh, gọi chuyên viên đến can thiệp, gỡ mìn (nếu có). Mỗi lần như vậy, hệ thống chuyên chở công cộng bị bế tắc nhiều giờ.
Ngay cả bây giờ, đứng trong xe métro hay ngồi đợi trên sân "quai", nếu thấy một bao hành lý không người bên cạnh, người ta vẫn không khỏi lo sợ vu vơ.
Đấy là nguyên do của hình vẽ cái bao hành lý trên cửa kính métro vậy...

Tôi chợt để ý một người già kéo đàn accordéon. Một loại đàn cổ thịnh hành những năm 1930 ở Pháp. Rất hợp với những bài ca của Edith Piaf hoặc của Joséphine Baker, chẳng hạn: 
"J'ai deux amours, mon pays et Paris..."


Tôi móc ví tặng người đàn accordéon 2 euros và ông vui vẻ làm dáng cho phép tôi chụp một tấm hình kỷ niệm.

"Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!
Có ai đàn lẻ để tơ chùng?"
(Huy Cận)

(dtk, 24/05/2025)

----
photos dtk@hdc.com 23/05/2025

Saturday, April 26, 2025

Hà Nội đi tìm

  



(2020/06/19, 14:30)

Hà Nội trong tôi không có Hồ Gươm, Vườn Bách Thảo... mà là một thành phố đỏ rực màu cờ.

Xe nhà binh chạy sầm sập trên đường, người tụ tập hai bên vỉa hè đông nghẹt, hoan hô rầm rĩ. Tôi nghển cổ nhìn, chỉ thấy đầu người và những lá cờ bay.

Tôi đứng trên một vỉa hè phố Quan Thánh, gần nhà chú Thụ chỗ gia đình chúng tôi đang ở tạm (vợ chú Thụ là em ruột của mẹ tôi).

Cái tên phố này, lúc đó tôi không hề biết. Nhưng bao nhiêu hình bóng lũ lượt đổ về, tự động sắp xếp thành một bức puzzle.

Thấy nhiều người đeo trên túi áo một tấm hình tròn lồng kính ngộ nghĩnh. Chạy về nhà xin bố mua. Nét mặt bố bỗng nhiên nghiêm khắc hẳn lên làm tôi ngơ ngác không hiểu tại sao.

Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy
Là những nhành sông đỏ sóng cờ
Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại
Năm cánh xòe trên năm cửa ô...

Mãi sau này, lần đầu đọc bốn câu thơ trên đây của Vũ Hoàng Chương, tôi nhận ra ngay Hà Nội trong trí nhớ chính là Hà Nội vào những ngày tháng đó.

Bây giờ thì tôi nhớ rõ gia đình chúng tôi đến Hà Nội từ mấy hôm trước.

Một sớm, có người đánh thức, đưa cho tôi một tô bánh sợi trắng nuốt, nước còn nóng hổi. Đó là anh Tế, tuổi độ 15, là người làm cho gia đình tôi. Anh Tế là con một gia đình cùng làng với cha mẹ tôi ở Hà Đông. Có lẽ lần đó đi theo cha mẹ tôi chuẩn bị vào Nam...

Đó là lần đầu tiên tôi được ăn phở (không thịt), ngon ngọt lạ thường.

Tôi còn nhớ, có hôm theo anh Tế nhặt những quả bàng rơi, lấy đá đập bể, moi lấy nhân ăn, bùi bùi thơm thơm. Có lần anh ấy lấy gậy khều một trái gì rất lạ, trên cành thòng vào balcon nhà chú Thụ. Trái hình bầu dục (bây giờ thì tôi biết nó hơi giống trái cacao), lúc anh Tế đập ra, thấy còn xanh, vứt đi chỗ nào tôi không để ý. Anh Tế biết làm nhiều trò vui. Có lần anh ấy biểu diễn chỉa hai ngón tay như bắn súng, bịm môi nhịn thở, dồn hơi xuống bụng, bịp bịp phát ra tiếng rắm, làm mọi người cười nghiêng ngả.

Chúng tôi nhiều lần chạy sang nhà Bà Trẻ ở bên kia đường. Chúng tôi gọi là Bà Trẻ, vì bà là cô của mẹ tôi. Căn gác nhà Bà Trẻ lúc nào cũng âm u hương khói. Nhưng tôi hay chú ý tới cái bình sứ cắm hoa giả. Lần nào, nếu Bà Trẻ có mặt, cũng với tay gỡ mấy cái hoa hình quạt hoặc như cánh bướm, mở ra thành tờ giấy bạc, cho mỗi đứa một cái.

Anh tôi một lần được Bà Trẻ cho một sợi dây chuyền vàng có gắn một cái móc bằng ngà voi. Không hiểu sao, một hôm anh ấy đem đổi sợi dây chuyền với một thằng bé nhà bên cạnh, lấy hai chiếc bánh xe bằng cao-su. Hai anh em thỉnh thoảng mỗi đứa ngồi một góc phòng trên gác, lăn qua lăn lại hai cái bánh xe, cũng vui.

Hình như lúc bấy giờ anh được vô ban nhi đồng trong phố tập đánh trống cà rà rình theo điệu xôn đố mì:

Đây thiên đường tổ quốc chúng ta,
Đây ruộng vườn quê hương ngàn đời...

(2020/06/19, 21:40)

Năm đầu vào Nam, gia đình tôi ở Đà Lạt. Trong nhà có cậu Nghị — em mẹ tôi, cùng với một người bạn lính thuộc Ngự Lâm Quân của cựu hoàng Bảo Đại, đến trọ một thời gian (1).

Buổi tối trong phòng ngủ, cậu tôi thường hút thuốc lá, thở ra những vòng khói xanh huyền ảo, và thích hát bài "Hướng Về Hà Nội".

Lớn lên một chút, thỉnh thoảng nghe bố mẹ nói chuyện với nhau, hoặc đọc văn của Thạch Lam, Nguyễn Đình Toàn... tôi mới biết thêm những tên đường kì lạ.

(2020/06/21, 14:27)

wikimedia.org/wikipedia/ 
Tháp Rùa

Tôi vụt thấy mình đứng sững nhìn Tháp Rùa trên nước lung linh.


(2020/06/30, 16:59)

Lúc vừa viết xong câu trên, cách đây 9 ngày, tôi nhớ rõ: đầu óc bỗng khựng lại, mấy ngón tay gõ phím đờ đẫn.

Một câu hỏi lóe lên: Tôi đang viết Cái gì đây? Để làm chi? Chẳng là rót thêm mấy giọt nước bẩn vào đầu người đọc?

***

Bạn đọc thân mến, xin cho phép gọi như thế, theo thể điệu của Baudelaire (Au Lecteur).

Hôm đó, tháng 7 mùa hè 2002, lần đầu tôi trở về thăm Hà Nội, — 48 năm sau ngày theo bố mẹ lên tàu vào Nam.

(2020/07/01, 02:01)

Tháp Rùa giống hệt như trong con tem hình Hồ Hoàn Kiếm tôi sưu tầm được những năm xưa. Những con tem rất quý, bóc ra từ những bao thư cậu Nghị để lại, khi cậu từ giã gia đình tôi ở Đà Lạt, lấy chuyến tàu cuối cùng về Bắc, tìm lại người vợ thân yêu (*01).



(còn tiếp)



Chú thích

(*01) Xem bài: người hẹn cùng ta
















































thiên đường tổ quốc

 


Không hiểu sao, tối hôm qua, hai câu hát nghe từ mấy chục năm về trước, khi tôi còn rất nhỏ, ở Hà Nội, bỗng bay về trong trí nhớ:


Đây thiên đường tổ quốc chúng ta, 

Đây ruộng vườn quê hương ngàn đời...


Từ lâu, tôi vẫn chưa tìm lại được nguồn gốc hai câu hát này, nghe được ở đâu, ai hát, trước hay sau năm 1954, — năm tôi theo cha mẹ đến Hải Phòng, ở tạm nhà bác Lộc, chờ chuyến tàu vào Nam.

Không biết có phải bài hát nhi đồng, nhịp theo điệu xôn đố mì, mà anh tôi đã tập hát ở phố Quan Thánh, Hà Nội, gần nhà chú Thụ, những ngày giải phóng thủ đô? 

Tâm tư những ngày xa xưa ấy, mãi sau này, tôi mới gặp lại trong bốn câu thơ của Vũ Hoàng Chương:


Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy, 

Là những nhành sông đỏ sóng cờ. 

Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại, 

Năm cánh xòe trên năm cửa ô...


Sáu tháng trước (tháng bảy 2020), đang viết bài "Hà Nội đi tìm(*01), để nhớ lại những năm tháng ấy, tôi bỗng bại bút, ngay ở đoạn nhắc tới những ngày cuối cùng ở đó, trước khi vào Nam.

Sau đó, tôi phải viết bài "Cá tra vẫy vùng" (*02) để tìm cách thoát khỏi sự bế tắc nói trên.



Có thể là ở mấy chữ "thiên đường tổ quốc" mà tôi nhớ lại hai câu hát đã dẫn trên đây? 

Hay là vì bốn chữ cái XHCN chăng?


Dầu sao, cái bánh vẽ hoang đường đó, — hôm nay vẫn cứng đầu cứng cổ ngang ngược chưa thôi.

Mấy tháng nay, đọc lại từng câu từng chữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, vẫn chưa khỏi bàng hoàng:

Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian (câu 1706)



Nhiều khi "cười mà muốn khóc", như câu viết lập đi lại nhiều lần trong trang Facebook Kí giả Từ Thức.


Trang Facebook của ông ấy vừa bị đóng cửa mấy tháng nay, không rõ là vì lí do nào, ngoài cái lí do bị những con mắt cú vọ của công an Hà Nội, toa rập với "mạng xã hội" của Zuckerberg, chà đạp tự do ngôn luận, ở ngay tại nước Pháp thế kỉ XXI.


Cũng xin khóc cười theo "vận nước nổi trôi":


Thiên đường tổ quốc (hay XHCN)

Doanh Châu Phương Trượng Bồng Lai,

Xả Hôi Chủ Nó một loài cá tra.

Ba Đình đem mở nắp ra,

Nghệ An Nghệ Tĩnh chết cha nhân quần.


(*03) (*04) 

(2020/12/20)




Chú thích

(*01Hà Nội đi tìm

(*02) cá tra vẫy vùng

(*03) Nghệ An: Ngán cho cái mũi vô duyên, Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An (Cao Bá Quát).

(*04) Nghệ Tĩnh: quê quán bác Hồ.



Thursday, November 14, 2024

bèo nổi mây chìm


 "Xuân đời chưa hưởng kịp,
Mây mùa thu đã sang."

Tác giả hai câu thơ là Vũ Hoàng Chương, — tôi vẫn thích nhớ lại là thầy dạy Việt văn cho tôi trong một năm xưa ngắn ngủi. Chiều nay, không mang sầu vạn cổ, — sao lại nhớ đến hai câu này? Chắc hẳn là vì mấy cụm mây trắng bay lững lờ trong đáy ao bèo.

0770. "Để con bèo nổi mây chìm vì ai." http://vietnamtudien.org/TruyenKieu/

Bỗng liên tưởng đến Đinh Hùng:

"Hôm nay có phải là thu,
Mây năm xưa đã phiêu du trở về?"

Cứ như thế thì thu sẽ liên tu bất tận.

Câu thơ của Lưu Vũ Tích, — mà tôi muốn lấy làm "quan điểm tích cực" đối với mùa thu:

"Ngã ngôn thu nhật thắng xuân triêu."
我言秋日勝春朝。

~ hôm nay bị hai nhà thơ Việt Nam áp đảo...
Thôi, tạm mượn lời một bài hát của Trịnh Công Sơn, cho khoảnh khắc này:

"Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài song
Nghe tên mình vào quên lãng
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng..."


----
dtk@hdc.com ngày cuối tuần 14/11/2024

Saturday, October 19, 2024

cây bút mực

Hôm qua 3 giờ sáng, trằn trọc hoài không ngủ. Có lẽ vì buổi chiều qua phố Saint-Michel, đổ về như nước lũ, bao nhiêu những kỷ niệm êm đềm ngày cũ. Lên phòng viết, mở máy PC, chợt thấy bên cạnh bàn chữ (keyboard) cây bút máy Mont-Blanc, cùng với bình mực, phản chiếu lên khung màn ảnh, một vòng sáng lung linh.

Cây bút này là quà sinh nhật nhà tôi cho từ hơn hai chục năm rồi. Tôi rất thích cây bút này, đen huyền, điểm thêm những viền vàng trên nắp bút và ở phần dưới quản bút. Mỗi lần cầm bút, vừa vặn trong ba ngón tay, mở nắp, vạch lên giấy mấy con chữ, ngòi làm bằng thép mạ vàng, không cứng quá, không mềm quá, không cắn vào giấy, nét không to quá, không nhỏ quá. Thật là hạnh phúc thần tiên.

Gõ chữ đến đây, gõ thẳng vào smartphone như thói quen từ nhiều năm nay, tôi không ngăn được ý muốn lên phòng sách, viết thử mấy chữ, tìm lại niềm vui khi viết bằng cây bút mực này. 

Nhưng trong công việc mưu sinh, từ lâu tôi đã quen viết bằng bàn gõ trên máy. Thành thử bây giờ cây bút Mont-Blanc chỉ nằm đó làm cảnh mà thôi.

Hồi mới di cư vào Nam (1954), trước ngày tựu trường vào lớp Năm ở trường Tiểu học Di Chuyển Đa-Kao, mẹ tôi dẫn đi mua một cuốn vở, một cây bút chì hiệu Gibert và một quản bút hai màu vàng-đen tuyệt đẹp.

Chỉ còn nỗi nhớ https://www.facebook.com/share/p/G1CjVqm2UPMgLdw4/

 

 

Hôm đầu tiên vào lớp mới hay học trò có hai ba trình độ khác nhau. Có đứa đã biết đọc biết viết vanh vách. Có những đứa như tôi, còn phải viết chữ bằng bút chì.

Không nhớ nữa, mấy tuần hay mấy tháng sau, cô giáo quyết định cho tôi viết bằng bút mực. Mừng quá, tôi xin phép đến lớp anh tôi, học trên tôi hai ba lớp, để lấy cây bút mực mà mẹ giao cho anh giữ. Đứng thập thò bên cạnh cửa lớp anh tôi, không nhớ đã làm dấu cách nào cho anh tôi hiểu là tôi muốn xin cây bút gỗ. Thằng anh tôi chắc cũng nhút nhát, không dám xin phép ra khỏi lớp, mà lại nhờ một tên bạn, có phận sự viết bài cho cả lớp trên bảng đen, sát bên cửa ra vào, kín đáo đưa cho tôi một cây bút. Nhìn cây bút này, cũ kỹ dính mực tùm lum, tôi thất vọng não nề, đâu phải là cây bút xinh xắn mới tinh mà mẹ đã mua cho tôi trước buổi tựu trường. Tôi đành lủi thủi trở về lớp, trong lòng ấm ức chẳng biết làm sao.

Hôm nay, khi viết mấy dòng này, tôi không còn nhớ số phận cái bút xấu xí này về sau ra sao nữa. Anh tôi về nhà có đền lại cho tôi cây bút mới hay không. Nhưng những vết mực lem luốc làm tôi nhớ đến những bình mực Hondo thời đó. Những cái bình mực nhỏ nhắn này hay lắm, làm bằng nhựa, nắp mở kết hợp với một cái ống thông xuống gần đáy bình mực. Khi viết, chấm ngòi bút vô ống, nếu có lỡ để nghiêng bình, mực không bị đổ ra ngoài.

Made in Sài Gòn
https://www.facebook.com/932495416802843/posts/2600402996678735/?app=fbl

 


Năm đó, vào giờ tập vẽ, tôi vẽ một cái bình mực Hondo, rất kiểu cọ, mấy chữ Hondo nghiêng nghiêng. Cô giáo chấm điểm 10/10 và bảo tôi lên bảng vẽ làm mẫu cho các trò cùng lớp.

Chợt nhớ tới Jean-Jacques Sempé (1932-2022), họa sĩ và nhà văn người Pháp, có tranh đăng trên trang bìa báo The New Yorker, kể từ năm 1978, trong 40 năm. Ông trả lời phỏng vấn, nói dùng ngòi lá tre để vẽ tranh. Mà các học trò tiểu học cùng thời với tôi 1954-1967, đa số đều dùng ngòi bút lá tre made in France để viết.

Sempé, Le Pont des Arts
https://fr.pinterest.com/pin/766245324074568314/

Sempé est devenu en quarante ans une icône new-yorkaise en signant plus de 110 couvertures du prestigieux magazine culturel.
https://fr.m.wikipedia.org/wiki/Jean-Jacques_Semp%C3%A9


 

Sau 5 năm tiểu học, tôi chuyển sang dùng bút máy Pilot của Nhật, những năm trung học, sau sang Pháp du học dùng bút Watermann, Parker...  rồi đi làm có tiền xài bút Mont-Blanc.  Không biết viết chữ bằng bút mực, bút nguyên tử (stylo à bille), bút feutre... tôi có viết được gì hay ho không nhỉ.


(6) Made in Sài Gòn
https://www.facebook.com/932495416802843/posts/2600402996678735/?app=fbl






Chẳng bao lâu, đến thời Internet, toàn viết bằng bàn gõ trên máy điện tử. Hình như có cái gì thay đổi trong tôi. Bây giờ AI (Trí khôn nhân tạo) (*1) đang thao túng con người, tôi có chút gì hóa thành máy móc rồi chăng?

(dtk, 17/10/2024)

----
Ghi chú
(*1) AI: xin đề nghị dịch là "Trí khôn nhân tạo", với ý là do người tích tụ dữ kiện (big data) làm ra. Không lẫn lộn "Trí khôn" với "Trí tuệ", là phần Tinh anh - Thần trí của con người.  Người Tàu dịch là: "nhân công trí năng" 人工智能. Người Nhật dịch là: "Nhân công trí năng" 人工知能. Cf. http://bong-ngay-qua.blogspot.com/2019/11/tri-khon-nhan-tao.html



Tuesday, July 16, 2024

cửa

 

hôm nay nhìn
mới đọc ra
chữ "môn" 門 này cửa
sa bà bấy lâu

娑婆


Paris 75013, avenue de Choisy



Chú thích
 ✓ Phạn: sahā.
    Cũng gọi Sa ha, Sách ha.
    Hán dịch: Nhẫn, Kham nhẫn, Năng nhẫn, Nhẫn độ.
    Chỉ cho thế giới Sa bà (Phạm: Sahā-lokadhātu), tức là thế giới hiện thực do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Chúng sinh trong thế giới này làm 10 điều ác, chịu đựng các phiền não mà không muốn lìa bỏ, vì thế gọi là Nhẫn. Lại khi chư Phật, Bồ tát làm việc lợi lạc ở thế gian này, các Ngài phải chịu mọi thứ phiền não để biểu thị lòng vô úy và từ bi của các Ngài, cũng gọi là Nhẫn. Sa bà còn được dịch là Tạp ác, Tạp hội, nghĩa là cõi Sa bà là chỗ Tam ác, Ngũ thú tụ hội phức tạp.
    Ngoài ra, danh từ Sa bà vốn chỉ cho cõi Diêm Phù Đề, nơi cư trú của chúng sinh, đời sau, Sa bà trở thành 1 thế giới Tam thiên đại thiên do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, cho nên gọi chung thế giới có trăm ức núi Tu Di là Sa bà.
    [X. Pháp Hoa Văn Cú Q.2, hạ; Pháp Hoa Huyền Tán Q.2; Đại Đường Tây Vực Kí Q.1].

(Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch)



làm vườn

mùa xuân cắt tỉa
góc vườn
gốc cây
khô khốc 
thôi mường tượng nho




Vũ Hoàng Thư đề:

mầm giú đợi
hạ đơm mơ
men sẽ bốc
nồng độ thơ dâng trào




thuyền mây

trời cao từng cụm
trắng bông
nắng che nón lá
bềnh bồng
thuyền mây





photos Nhiếp Ảnh Việt Nam
https://www.facebook.com/share/p/xx7SGs1gNJKdSUox/


kẻ không nhà

 
xếp chăn nhung đỏ hoa hồng
người đi xa vắng vân mòng gió bay





Ghi chú:
(*) http://vietnamtudien.org/TruyenKieu/
Câu 2026: Về sau chẳng biết vân mòng ra sao.
vân mòng: tăm hơi, âm hao (Từ điển nguồn gốc tiếng Việt)
 
 
(dtk 16/07/2024)



























Sunday, June 30, 2024

những vần thơ nhớ mẹ


Cảm ơn ai đã gửi trên Facebook bài thơ «Em đau», trích từ sách Tập đọc Quốc Văn lớp Ba, do Hà Mai Anh và Đặng Duy Chiểu biên soạn, nhà xuất bản Việt Liên, Sài Gòn 1957 
(*).

EM ĐAU

          Những khi trái nắng, trở trời
  Em đau, là mẹ đứng ngồi không yên
          Tìm thầy, lo chạy thuốc men
  Đêm ngày săn sóc, vì em nhọc nhằn.
          Hết bóp trán, lại xoa chân
  Lúc ly sữa ngọt, khi cân cam sành
          Em ho: ngực mẹ tan tành
  Em sốt: lòng mẹ như bình nước sôi.
          Em nằm khấn Phật, cầu Trời
  Sao cho chóng khỏi, mẹ cười, em vui.

Thực ra, tôi chỉ thuộc lòng 4 câu cuối:

          Em ho: ngực mẹ tan tành
  Em sốt: lòng mẹ như bình nước sôi.
          Em nằm khấn Phật, cầu Trời
  Sao cho chóng khỏi, mẹ cười, em vui.

Đã 60 năm qua rồi! Không nhớ nữa, đã đọc trong sách «Tập đọc Quốc Văn lớp Ba» ghi trên, hay trong một số báo «Tuổi Xanh».



(*) hình scan nguyên bài thơ "Em đau": 

TÌNH - NGHĨA - ĐẠO ĐỨC | Facebook



Xem hình vẽ trong sách, tôi cảm động bồi hồi, thấy hệt như chính mình, nằm sốt li bì, trong một căn phòng ở nhà chú Thụ, phố Quan Thánh Hà Nội, thời khoảng gia đình chúng tôi đang chuẩn bị lấy tàu di cư vào Nam.

Lúc đó tôi chưa đủ lớn để có ý thức về mẹ, — như tác giả bài thơ.

Một hai năm sau đó, tôi vào trường tiểu học "Di Chuyển Đa Kao" ở đường Đinh Tiên Hoàng quận Nhất Sài Gòn.

Một chiều ê a học bài, mẹ bảo tôi đọc lại cho nghe, đó là một bài thơ của Tú Mỡ, nói về nhà trưởng giả học làm sang với tủ gương sập gụ gì đó, tôi quên hết rồi. Tôi ngạc nhiên vì mẹ có vẻ rất thích.

Một lần khác, tôi học một bài thơ của Tản Đà, trong đó có mấy câu mà tôi còn nhớ nằm lòng:

Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa
Mắt trông con đứa đứa về dần
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn

Cơm dưa muối khó khăn mới có
Của không ngon, nhà khó cũng ngon
Khi vui câu chuyện thêm giòn
Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà

Mẹ lại bảo tôi đọc lớn tiếng. Và mẹ nghe, lấy làm rất thú vị.

Sau này lên trung học, nhà vừa mua được một cái máy thu thanh, gọi là cái ra-đi-ô. Buổi tối, mẹ bảo 
tôi dò băng tần tìm cho mẹ chương trình Tao Đàn do Đinh Hùng phụ trách. Tôi mới hiểu mẹ cũng thuộc nòi sính thơ. Thói thích thơ của tôi hẳn là mẹ truyền cho tôi từ nhỏ.

Những năm tuổi trẻ, trước khi đi học ở nước ngoài, tôi còn nhớ rất nhiều bài thơ đọc trong các sách quốc văn hoặc trên các báo dành cho trẻ em như Tuổi Xanh, Măng Non, Tuổi Hoa..., rồi đến các nhật báo (Tự Do, Chính Luận...) và tạp chí văn chương (Văn, Thời Tập, Khởi Hành...). Và còn làm vài bài thơ đăng báo nữa chứ.

Thí dụ mấy câu bây giờ vẫn còn nhớ như in:

Nhận chiếc phong bì xinh xắn
Của người bưu tá trao cho
Lòng em nở muôn hoa nắng
Tuy trời giăng xám màu tro

Em yêu chữ người bạn mến
Đường dài vẫn thắm màu xanh
Và con dấu nhà bưu điện
Trên tem in vết rành rành

hoặc là:

Em yêu xứ Huế ngày xưa
Yêu chùa Thiên Mụ yêu hồ Tịnh Tâm
Còn đâu những buổi mưa dầm
Em cùng chúng bạn âm thầm gội mưa

(báo Tuổi Xanh, không nhớ tên các tác giả)

Tôi vẫn tiếc không có dịp đọc những bài thơ này cho mẹ.

Năm 2005, về Sài Gòn thăm nhà. Một hôm mẹ lục trong mấy lá thư tôi viết cho mẹ, lấy ra một bức, đọc cho anh em chúng tôi nghe và bảo: "Mai này mẹ mất, hôm làm tang lễ, các con đem bức thư này đọc cho mẹ nghe."

Hai năm sau mẹ mất, tôi không về kịp đưa tiễn, gia đình hôm làm tang lễ không ai nhớ lời ước nguyện của mẹ. Tôi vẫn ân hận suốt đời.

Những ngày ở Hà Nội trước khi lên đường di cư vào Nam, anh tôi được xếp vào đám nhi đồng trong phố, mỗi chiều học hát son đố mì.

Tôi còn nhớ 2 câu: "Đây thiên đường tổ quốc chúng ta, Đây ruộng vườn quê hương ngàn đời."

Sau 1975, ở nước ngoài, tôi tìm mãi trên Internet, hỏi những người am hiểu lịch sử Việt Nam hiện đại... nhưng không thấy mảy may dấu vết nào về 2 câu hát đó.

Hôm nay ghi lại đây như một bức thư bỏ vô chai ném xuống đại dương, biết đâu ngày nào đó nhận được câu trả lời, — cho mẹ.



(dtk, 30.06.2024)













Sunday, June 9, 2024

noces de camélia

 
09/06/2024 20:10 chủ nhật
Từ tuần trước tôi đã quyết định làm kỉ niệm ngày thành hôn cho thật đàng hoàng. Đề nghị với nhà tôi chọn ngày thứ bảy này, thay vì ngày chính thức trên giấy tờ, năm nay rơi vào ngày chủ nhật, phố chẳng đông vui. 

Café de Flore photo dtk@hdc.com

09/06/2024 21:00
Café de Flore nằm ngay khu Saint-Germain-des-Prés. Mấy triết gia, thi sĩ, nhà văn, nghệ sĩ... những năm 1920-1970 đến đây làm mưa làm gió (Ernest Hemingway, Jean-Paul Sartre, Alberto Giacometti...). Bây giờ du khách thế giới đến Paris, thế nào cũng phải ghé qua đây.

09/06/2024 21:50
Đợi nửa tiếng đồng hồ mới được 2 chỗ bên trong (inside). Hình như đa số khách hàng đều thích ngồi bên ngoài ngay vỉa hè boulevard Saint-Germain. Nếu muốn ngồi bàn bên ngoài sẽ phải đợi lâu hơn. 

10/06/2024 16:45
Chợt nhớ lại cách đây đã hơn mười năm, một buổi chiều, hai vợ chồng đang ngồi bàn bên ngoài, tôi nhâm nhi tách cà phê, còn nhà tôi uống gì nay không nhớ nữa. Bỗng một người đàn bà dáng dấp người Ba Tư, rất quý phái, ngay bàn bên cạnh, nói: "Đi du lịch khắp năm châu, các bạn có biết ở xứ nào ăn ngon nhất hay không? Ở xứ Việt Nam đấy."

Xem menu một lúc, đại khái không có gì lạ. Nhà tôi chọn món lobster, hình như một lần đến New York, được ăn món này trong một quán ăn ở Times Square, thấy ngon nay vẫn chưa quên. Tôi lật tới lật lui quyển menu, rồi chọn món thịt bò Charolais.

Người serveur đưa đĩa ra, món lobster nhà tôi chọn coi bộ ăn được. Nhưng khi người serveur, cách điệu tỏ ra người làm việc lâu năm ở đây, đem đến đĩa thịt bò, tôi bỗng chưng hửng, — vì là một đĩa thịt sống, say nát, đỏ lòm. Đúng như kiểu steak tartare mà tôi không dám ăn bao giờ. Theo truyền thuyết, món thịt này gốc từ những chiến binh khét tiếng người Mông Cổ (Tartares) cưỡi ngựa, nhét dưới yên ngồi những mảng thịt tươi, những mảng thịt đó chịu sự cọ sát suốt ngày, trở nên mềm mại. Ngày nay đầu bếp say nhuyễn thịt bò sống, đặt lên trên một cái trứng lòng đỏ lòng trắng còn tươi. Người sành điệu lấy đầy thìa moutard, rắc rất nhiều tiêu, quấy trộn tất cả thật kỹ. Bây giờ tôi mới để ý người serveur đã đem ra trước một hũ moutard và một lọ tiêu. Và nhất là không hỏi tôi mực độ cuisson (saignant, à point, bien cuit) của miếng thịt bò như thường lệ. Nhà tôi ái ngại bảo tôi sao không cẩn thận đọc menu. Tôi đành lấy moutard và tiêu trộn đều với thịt, nhín nhín ăn vài fourchettes, có đệm rau salades, nuốt được vài miếng. Tuy mùi vị khá thơm ngon, nhưng nghe thịt lạnh trôi vào cổ họng, vẫn thấy ớn ớn. Nhà tôi tội nghiệp chia cho mấy lát lobster. Rốt cuộc tôi bỏ lại 4/5 đĩa thịt cho nhà hàng.

18/06/2024 14:49

église Saint-Germain-des-Prés

trước quán café Les Deux Magots




 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



 

Du khách rất đông người đến  trước những tiệm boulangerie & patisseries bán bánh mì và bánh ngọt, nhiều như những quán cà phê đầy dẫy. Ai thích ăn bánh macarons thì phải đến cửa hiệu Ladurée hoặc Pierre Hermé trên đại lộ Champs-Elysées. Những năm về trước, nhà tôi thỉnh thoảng đến đó mua một hộp, cho là "ăn được", nhưng bảo không ngon bằng mua ở đường Tự Do Sài Gòn xưa.

Vào một tiệm bán glaces Amorino mua 2 hũ, vì bắt đầu hơi khát và vì lúc nãy bữa trưa không muốn ăn desserts ở quán Café de Flore. Muốn ăn kem thật là ngon, nên đến hiệu Berthillon xưa nhất rue Saint-Louis en l'Île, trên đảo Cité gần nhà thờ Notre-Dame. 


















































sgp-99
























saa-01













































































saa-dernier
























boulevard Saint-Michel





























































Hai vợ chồng đi ngang mấy tiệm bán sách cũ (livres d'occasion). Hai người vốn ham sách, liền len vào đám đông người cũng lục lọi sách. Này những bộ sách dày cộm 4-5 trăm trang giá rất hời, chỉ có 1 € mua được 3 cuốn. Tôi tìm được một chồng báo cũ những năm 1913-1914, đóng thành tập bìa cứng mạ vàng (?), bán 1 € một cuốn.

















































Đi về phía trạm métro Saint-Michel, chợt để ý một quán cà phê lạ, mới mở cửa hồi nào không hay. Ngờ ngợ một lúc mới nhận ra đây là chỗ cũ của một quán chuyên bán livres d'occasion của Nhà sách Gilbert-Jeune kỳ cựu. Ôi, tôi đã đến đây mua hoặc coi cọp sách bao nhiêu năm trời. Hệt như thời trung học ở Nhà sách Khai Trí Sài Gòn xưa. Lòng bỗng tràn ngập những kỷ niệm êm đềm ngày cũ.


nguồn: https://sagaphoto.com


trạm métro Saint-Michel (photo dtk 2005)

<à compléter autres livres>















































































<bdmich bouche métro>






(còn viết tiếp)