Monday, March 18, 2024

hạnh phúc

 


Hôm qua chủ nhật 17/03/2024, trời mưa sướt mướt rừng Vincennes, ông bà con cháu cùng nhau vào nhà hàng Nhật, ăn sushi và mấy xâu thịt nướng, ~ xoàng xoàng thôi (theo kiểu công nghiệp Tàu phân phối khắp Paris và có lẽ cả Âu châu).
Ôi, sao mà ấm áp cõi lòng...

château de Vincennes
xuyên thiêu: xâu thịt nướng
trà xanh bánh ngọt
thọ ti: sushi
château de Vincennes





(photos 2024/03/17 dtk@hdc.com)



Tuesday, March 12, 2024

xuân muộn

 
(2024/03/11)
Năm nay mùa đông kéo dài. Hôm nay, cuối tháng Giêng ta, mới có một ngày ấm.
Trên con đường nhỏ, lót gạch tương đối sạch sẽ tươm tất, dành cho người đi bộ, bắt ngang avenue d'Ivry và avenue de Choisy, hai trục chính song song của khu phố Tàu này, — đập ngay vào mắt, một đống áo quần bị ngủ chồng chất che kín cái banc ghế, vốn để cho người ta ngồi nghỉ chân.
Ba con chim bồ câu tự do mổ bánh vụn trên vỉa hè. Tôi lại gần chụp hình, tụi nó chằng thèm để ý.


(2024/03/12 09:10)
Còn rủ nhau nghênh ngang đi ra giữa đường, mặc người qua lại.


Thây kệ mấy con chim hoành hành phố xá, lại coi kỹ đống áo quần. Có vẻ "chủ nhà" là một người đàn bà: xì líp, xú cheng... tung tóe.


Kẻ không nhà, chắc đang lang thang đâu đó, có "căn nhà" coi bộ không đẹp bằng những túp lều xanh đỏ tím vàng, như những lều cắm trại nghỉ hè, dưới gầm cầu Pont de Sully, tôi thấy hôm trước.


Cách đây hơn một nghìn năm, Đỗ Phủ (712-770) một hôm cưỡi ngựa đi ra ngoài thành:

Khóa mã xuất giao thì cực mục, 
Bất kham nhân sự nhật tiêu điều 
跨馬出郊時極目, 
不堪人事日蕭條 (Dã vọng 野望)
Tạm dịch:
Cưỡi ngựa ra ngoài thành nhìn mút mắt, 
Đau lòng vì cảnh đời ngày một suy đồi, rách nát.

Cũng đúng mà cũng không hẳn như vậy.

xuân muộn lang thang đường phố lạ
trời xanh nắng ấm biết nhà đâu

(2024/03/15)

Ờ, năm nay mùa xuân về muộn thật...








(
photos dtk 2024 mars)


Saturday, March 9, 2024

nhớ thi sĩ Bàng Bá Lân (1912-1988)

 
Có lẽ là vào những năm đầu bậc trung học, ở lớp đệ Lục đệ Ngũ gì đó, tôi đọc được hai bài thơ của Bàng Bá Lân và thấy thích ngay. Bây giờ, hơn 60 năm sau, tôi vẫn còn thuộc nằm lòng 4 câu đầu của hai bài thơ đó.

Bài thứ nhất:

Tôi yêu tiếng Việt miền Nam,
Yêu con sông rộng, yêu hàng dừa cao.
Yêu xe thổ mộ xôn xao
Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê.

Bài thứ hai:

Dưới gốc đa già, trong vũng bóng,
Nằm mát, đàn trâu ngẫm nghĩ nhai.
Ve ve rung cánh, ruồi say nắng;
Gà gáy trong thôn những tiếng dài.


Cả đời, tôi chỉ là người phố thị, thế mà đọc mấy câu trên, tôi say mê mơ tưởng những cảnh đồng quê chưa từng biết bao giờ.

Vào thời kỳ đó (1962-1964), chưa đầy 15 tuổi, học trò con trai phải mang giấy Lược Giải Cá Nhân. Tôi còn nhớ năm đó, cùng bạn bè chen lấn trước Nha Học Chính (?), bên cạnh trường Trưng Vương, gần Thảo Cầm Viên, để lấy cho được mảnh giấy khổ bằng nửa trang vở học trò, in trên một thứ giấy bở hơn tờ nhật báo. Sau đó đem cho người ta bọc plastique hai mặt, dán chặt bốn cạnh bằng cái bàn ủi đốt than, rồi mới bỏ vào túi áo để mang theo thường trực bên mình.

Một lần trên đường Hai Bà Trưng gần nhà thờ đi về nhà phía chợ Tân Định, có cảnh sát đòi kiểm soát giấy tờ. Tôi móc túi lấy giấy Lược Giải Cá Nhân ra trình. Chợt nhìn thấy bóng mẹ tôi ở bên kia đường. Bề ngang đường Hai Bà Trưng khá rộng, vậy mà tôi thấy mẹ đứng yên, mặt xanh như tàu lá chuối. Tôi bỗng mủi lòng thương mẹ.

Vài năm sau đó, Sài Gòn bị giới nghiêm, không được phép ra đường kể từ 20 giờ tối. Mỗi lần đi đâu về trễ gần giờ giới nghiêm, vào nhà tôi lại thấy mặt mẹ xanh như lần tôi bị kiểm soát tờ Lược Giải Cá Nhân.

Hồi đó, tôi bắt đầu thích đọc báo Tự Do, và say mê theo dõi truyện dài feuilleton Khói Sóng của Như Phong Lê Văn Tiến, giúp tôi sớm hiểu về một thời kỳ chiến tranh rất phức tạp, manh nha từ buổi đầu Cách mạng mùa Thu 1945. Ngoài ra, tôi cũng thích đọc những truyện dài của Nguyễn Hoạt, mục Nói Hay Đừng của Hiếu Chân (một biệt hiệu của Nguyễn Hoạt), mục thơ Đàn Ngang Cung của Hà Thượng Nhân.

Tinh thần học sinh sinh viên những năm đó thường rất hoang mang, đau buồn vì ảnh hưởng chiến tranh lan rộng. 

Nhạc Trịnh Công Sơn bắt đầu chấn động nỗi niềm tuổi trẻ. 

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu...

Người con gái Việt Nam da vàng
yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
yêu quê hương nước mắt lưng tròng...

Bẵng đến năm tôi sửa soạn thi Tú Tài Một (1966-1967). Tôi chợt đọc thấy rao tên Bàng Bá Lân trên nhật báo Tự Do, được cho giữ mục tuyển thơ gì đó.

Tôi làm một bài thơ gửi đăng. Điều bất ngờ là Bàng Bá Lân không đăng trong mục tuyển thơ của ông, mà lại viết một bài  trong mục Gàn Bát Sách dưới bút hiệu Đồ Gàn, nếu tôi nhớ không lầm. 

Đại khái, viết tản mạn về thời sự mùa hoa phượng, cũng là mùa thi cử, dẫn giải từng đoạn bài thơ của tôi.

Xin ghi lại dưới đây theo trí nhớ:

Những ngày tháng thanh xuân
Cắm đầu trên bàn học
Lấy mắt nhồi vào óc
Toán, Sử Địa, Công Dân

Những ngày tháng thanh xuân
Trôi dần dần đi mất
Chờ đi giựt bằng cấp
Để được sống yên thân

Những ngày tháng thanh xuân
Trôi dần dần đi mất
Giương mắt nhìn trân trân
Khóc không ra nước mắt

Có cảm tưởng thiếu mất một khổ 4 câu. Nhưng biết sao giờ? 

Bài thơ rất ủy mị đúng mode thời đó. Hình như mang chút hơi hướm thể điệu của Ý Thức Mới trong Văn nghệ và Triết học của một tác giả mới nổi tiếng Phạm Công Thiện (1941-2011).

Mối duyên thơ của tôi với Bàng Bá Lân không ngờ gặp lại hôm nọ trên Internet.

Tôi tình cờ đọc được một bài thơ khác của Bàng Bá Lân trên trang web "Chim Việt Cành Nam"
http://chimvie3.free.fr/83/huongcau/huongcau_BangBaLan_Doi_083.htm

Bài thơ dài 116 câu (viết năm 1957) ghi lại một biến cố lớn năm 1945, tức là nạn đói khủng khiếp do quân đội Nhật gây ra:

Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!...

Đây là một bài thơ phóng sự có giá trị lịch sử trong văn học Việt Nam.

Người giới thiệu trên trang web chimviet3.free có nhã ý dẫn làm mào bài thơ trên của Bàng Bá Lân bằng mấy câu tôi dịch thơ chữ Hán của Cao Bá Quát:

Củ củ thùy gia tử, 
Y phá, lạp bất hoàn,
Thúc tòng nam phương lai 
Hướng ngã tiền đầu than...
(Đạo phùng ngạ phu)

Lủi thủi ai đi đó,
Áo rách nón tả tơi.
Chợt từ phía nam lại,
Đến ta than mấy lời…
(Trên đường gặp người đói)

Ông thầy Việt văn của tôi năm đệ Nhị, dạy cho tôi ham đọc Truyện Kiều chẳng hạn, chính là thi sĩ Vũ Hoàng Chương (1915-1976).

photo wikipedia: Bàng Bá Lân (1912-1988)

Bây giờ nhớ lại, tuy chưa bao giờ theo học Bàng Bá Lân (1912-1988), tôi cũng mạo muội tự coi như là học trò ông.

















Tuesday, March 5, 2024

đọc lại một bài thơ hay của Nghiêm Xuân Hồng


Tuần trước đọc được 2 bài thơ hay của Nghiêm Xuân Hồng (1920-2000) 
đăng trên FB Gió-O Hải Ngoại.


Đọc đoạn đầu bài Độc Đăng Đài, lại gặp ngay cái tên Sartre, 
cái tên ám chướng từ những năm đầu du học tại Pháp, 
nhất là vào năm 1972, đang diễn ra cuộc hòa đàm về chiến tranh 
Việt Nam tại Paris, mở đường dẫn đến biến cố tháng Tư 1975.

… Vừa lúc nãy, hắn đi qua mấy cái sạp lồng kính bày bán báo
Thấy đăng tải 1 giòng tin: Sartre, giant of philosopher, dies
Hắn lẩm bẩm: Thì ra y đã chết, đã chết, nhà triết gia của những 
con ruồi Hy Lạp
Nhưng không hiểu chết ra sao?
Hay lại chết trong một cơn lucidité đầy mê mê muội muội?
Hắn thầm nghĩ tay này có qúa nhiều chất não.
Đã nhìn thấy cái rỗng - không của tâm - thức con người
Nhưng không biết đường nhập vào cái không - hư ấy
Nên rút cuộc, chỉ vẽ ra một mê đồ vọng - tưởng
Rồi sa lầy trong đó như con ruồi mắc lưới nhện tơ!

Năm 1970, du lịch ở vùng Bretagne-Normandie, 
do bộ Văn Hóa Giáo Dục Pháp tổ chức, dành cho các sinh viên 
ngoại quốc được học bổng của chính phủ Pháp. Ngạc nhiên làm sao, 
khi vừa bước xuống xe car, gặp ngay một anh bạn cùng promo sang 
Pháp với tôi, tay cầm xấp báo do Jean-Paul Sartre chủ trương, 
miệng rao không ngớt: 
La Cause du Peuple! S’il vous plaît! Achetez La Cause du Peuple!”. 
Anh bạn tôi đó đúng là một đại biểu cho tinh thần phản chiến, chống 
Đế quốc Mỹ, ủng hộ Mặt trận Giải Phóng Miền Nam thời bấy giờ.
 
photo Internet: cặp Sartre-Beauvoir bán báo 
"La Cause du peuple" trên đường phố Paris, năm 1970

Đọc lại mấy câu đầu bài thơ Nghiêm Xuân Hồng:

Thấy đăng tải 1 giòng tin: Sartre, giant of philosopher, dies
Hắn lẩm bẩm: Thì ra y đã chết, đã chết, nhà triết gia của những 
con ruồi Hy Lạp
Nhưng không hiểu chết ra sao?
Hay lại chết trong một cơn lucidité đầy mê mê muội muội?

image Internet: bìa sách vở kịch "Những Con Ruồi"

Ờ, "Những Con Ruồi" là nhan đề một vở kịch của Jean-Paul Sartre (1905-1980). Ông ta là triết gia kiêm nhà văn, đã được trao giải Nobel (1964). 

Nhưng bộ não đầy chất xám ấy không hiểu sao lại cùng bà bồ Simone de Beauvoir (1908-1986) hì hục tuyên truyền cho ý thức hệ Mác-Lê?

Nghe nói, vào những ngày cuối đời, mắt đã mù, ông ta nhờ người đọc cho nghe truyện Thủy Hử. Đó là truyện 108 anh hùng Lương Sơn Bạc, nổi lên chống lại triều đình độc đoán nhà Thanh. Không biết triết gia Sartre có sáng mắt ra chưa?

Nhẩn nha đọc lại trọn bài thơ lần nữa.

ĐỘC ĐĂNG ĐÀI
.
Chiều chiều, hắn lững thững tản bộ tới đó là y như thấy mỏi cẳng.
Có lẽ nơi đó có mấy lùm cây um tùm rậm rạp
Trông mát rượi, mà hắn thì thích lùm cây.
Nơi đó có mấy bức thềm tam cấp
Của ngôi nhà thờ Methodist Church.
Nên hắn hay ngồi trên thềm
Hút thuốc phì phèo nghĩ ngợi vẩn vơ
.
Vừa lúc nãy, hắn đi qua mấy cái sạp lồng kính bày bán báo
Thấy đăng tải 1 giòng tin: Sartre, giant of philosopher, dies
Hắn lẩm bẩm: Thì ra y đã chết, đã chết, 
nhà triết gia của những con ruồi Hy Lạp
Nhưng không hiểu chết ra sao?
Hay lại chết trong một cơn lucidité đầy mê mê muội muội?
Hắn thầm nghĩ tay này có qúa nhiều chất não.
Đã nhìn thấy cái rỗng - không của tâm - thức con người
Nhưng không biết đường nhập vào cái không - hư ấy
Nên rút cuộc, chỉ vẽ ra một mê đồ vọng - tưởng
Rồi sa lầy trong đó như con ruồi mắc lưới nhện tơ!
.
Ngồi nơi đây, hắn lặng nhìn quang cảnh buổi chiều chủ nhật.
Phía trước mặt là chiếc sân trống nhà trường
Chỉ có mấy đứa nhỏ cầm chầy đương quật bóng base ball
Quang cảnh buồn nản, trống vắng, ngắc ngoải
Vì những ngày cuối tuần tàn rỗi, và mai là ngày thứ 2
Ngày mai thì mặt trời vẫn mọc, nhưng mặt trời của lầm than
"... Các người sẽ phải đổ một bát mồ hôi
Để đổi lấy một khúc bánh mì..."
Đó là lời dạy chua xót của một bậc có nét mặt thiên thần
Nói vọng lại từ miền sa mạc Galilee
Ôi! Khúc bánh mì nâu hay bát cơm đỏ quạch
Thì cũng đồng một vị nhọc nhằn cay đắng...
Chợt nhìn thấy trên vách nhà thờ một tờ khuyến tấn
Có hàng chữ in to bằng nắm tay:
Be awake
Jesus will come again
Đó là một điệp khúc tín giải vững vàng
Hay chỉ là ảo-ảnh hy-vọng tương tự như chiếc cầu vồng 
khí ánh dương xuyên làn mưa bụi?...
Nhưng loài người trên trái đất hình như nhọc nhằn qúa rồi
Và đã chia thành 2 phe rõ rệt:
Một đa số thì bị đày ải, đói khát, rã rời, kinh hoàng như 
một lũ ứng viên địa ngục
Còn 1 thiểu số thì mê loạn: cuồng điên, nghiền máu 
và mùi thuốc súng như một đàn qủy đầu thai
Nên con người đành phải nhắc lại điệp khúc: 
Let Thou Come Again
Nhưng các bậc Thần Linh hình như còn lẩn mặt
Có lẽ chán nản vì mùi xú khí nồng nặc của loài người
Nên chưa chịu chìa bàn tay có ngàn mắt để độ trì cứu chuộc...
Bao giờ đây? Bao giờ đây?
.
Hắn nghĩ lan man, nhớ tới mấy lời trong kinh L'Ecclesiaste:
"Hư Không của Hư Không.... Tất cả chỉ là Hư Không..."
Nếu vậy, thì những niềm thống khổ kia cũng chỉ là hư không sao?
Như vậy, thì hơi đâu mà nhỏ lệ than van?...
Bỗng nghe những nhịp chân chạy lạch bạch
Thì ra một cặp vợ chồng trẻ
Mặc quần ngắn phô cặp đùi phốp pháp
Đương cùng nhau chạy bộ theo kiểu đường trường
Theo sau là một con chó lông xù thỉnh thoảng kêu lên ăng ẳng
Cả bọn qua rồi lại thấy một cô gái đi tới
Giầy vải, quần tím buộc túm mắt cá
Tóc vàng, mắt xanh, môi đỏ
Đôi vú căng phồng dưới làn áo có in mấy chữ Handle with care
Nét mặt mãn nguyện về tấm hình hài
Hắn ngẩn ngơ hồi lâu suy tư về đôi vú của Eva
Rồi bùi ngùi tự hỏi:
Không lẽ hai trái đồi tươi mát ấy lại chính là rừng rậm của khổ đau?
Không lẽ 2 trái cấm địa đàng ấy lại là Không Hư cả sao!?
.
Lòng hắn chợt vui lên: một con chim gáy đang đủng đỉnh khoan thai
Bước những bước nhỏ qua mặt đường nhựa
Rồi leo lên lề cỏ
Hắn nhìn kỹ con chim có bộ lông mầu hồng phơn phớt
Lần đầu tiên, hắn thấy con chim có phong thái
Ung dung tao nhã như cô gái không đẹp nhưng có phong tư
Con vật bước lăng xăng trong cỏ, chẳng biết định đi đâu....
Vừa lúc ấy thì cặp vợ chồng chạy bộ
Chắc đã qua hết lộ trình nên vòng trở lại
Con chó thấy hắn ngồi lù lù bất động
Bèn dừng lại, vểnh mõm sủa gâu gâu
Nó sủa một cách chân thành tin tưởng
Khiến hắn nẩy tình thương con vật
Nên nhủ thầm:
Này chó, đừng nên sủa nữa
Đừng nên thêm thắt những âm thanh vô nghĩa vào 
cái vũ trụ đã qúa vô nghĩa này
Nếu mi cứ tiếp tục sủa như vậy
Thì cái nghiệp chó của mi vẫn cứ dằng dặc triền miên
Hãy chịu khó suy tư một chút
Và cầu xin chuyển thân thành 1 hình hài khác thì hơn
Còn 2 ông bà chủ mi nữa
Nếu chỉ biết nâng niu chi chút cái mảnh hình hài bị thịt
Thì ngàn vạn năm nữa, trái đất này vẫn mãi mãi
Ly-loạn-loạn-ly
.
Hắn ngồi đã thấy ê đít, nên uể oải đứng dậy
Ngước mắt nhìn 1 lần nữa tờ giấy trên tường
Jesus will com again
Rồi bước đi.
Nhưng ra tới đầu đường lại nhìn thấy con chim gáy
Con vật không đi lăng xăng nữa, mà đương nằm phủ kín 2 chân
Nó nằm yên ổn, bình thản giữa vũ trụ quay cuồng
Đôi mắt nhỏ tròn, hiền hoà lấp loáng như 2 chấm mực.
Người và chim nhìn nhau, nhưng con vật vẫn không nhúc nhích
Tròng mắt long lanh như thoáng một nụ cười thầm...
Hắn bỗng lẩm bẩm: Biết sao được! Biết sao được!
Có thể, có thể lắm, HE will come again
Rồi hắn bước vòng xuống mặt đường để nhường lối cho chim

Nghiêm Xuân Hồng
(báo Đất Mới, Seattle, số 195, ngày 29-2-1984)

Mời xem 1 phút video hai con chim nhún nhảy cho vui:


https://vnexpress.net/doi-chim-nhun-nhay-tren-duong-4353958.html

Hôm qua (04/03/2024) đi dạo dọc bờ sông Seine từ Pont de Sully tới 
Pont de la Tournelle, đi vòng quanh nhà thờ Notre-Dame 
đang sửa chữa sau vụ hỏa hoạn 2019. 
 
Lòng vui phơi phới, không biết có phải vì nhớ tới đoạn cuối bài thơ.

Kèm theo đây mấy tấm hình chụp làm kỷ niệm, 
hình như vô tình minh họa cho bài thơ, — đọc hoài không chán.

Pont de Sully: dưới gầm cầu là những túp lều 
dành cho những kẻ không nhà (sdf = sans domicile fixe)

Notre-Dame de Paris: vài du khách đứng chụp hình

Pont de l'Archevêché: cô gái chạy jogging và 
một người dẫn chó đi dạo bờ sông

Pont de la Tournelle

Petit Pont: Notre-Dame đang sửa chữa

những mái lều cho những kẻ không nhà

bouquinistes: lục xem sách cũ ở đây, biết đâu tìm được mấy cuốn của Jean-Paul Sartre



chuẩn bị khai mạc Thế Vận Hội 2024



(photos dtk 2024 mars)